TÀU MIỆT THỊ VIỆT LÀ NAM MAN
TÀI LIỆU MỸ NÓI NGƯỢC LẠI: VIỆT ĐỊNH CƯ TRƯỚC TÀU DU MỤC 4000 NĂM
Nội dung:
1- Bản đồ của tạp chí National Geographic của Hoa Kỳ về tộc Việt trồng lúa trên 5.000 năm BC
2- Tàu mới có tên nước từ sau cách mạng Tân Hợi 1911
3- Khuếch đại văn minh, văn hóa lịch sử như marketing/tiếp thị một món hàng ra thị trường
4- Khuếch đại tiêu biểu từ Khổng Tử tới Chu Hy
5- Chu Công là ai?
6- Chu Hy là ai?
7- Có thiệt như Khổng Tử và Chu Hy xưng tụng?
8- Tiếng than từ cửa miệng Khổng Tử
1- Bản đồ của tạp chí National Geographic của Hoa Kỳ về tộc Việt trồng lúa trên 5.000 năm BC
BẢN ĐỔ LỊCH SỬ TÀU CỦA NATIONAL GEOGRAPHIC 1991
(Chân thành cám ơn tạp chí National Geographic)
2- Tàu mới có tên nước từ sau cách mạng Tân Hợi 1911:
Tôn Dật Tiên (Tôn Trung Sơn), trong Tam Dân Chủ Nghĩa Chính Cương bài thứ nhứt nêu bật truyền thống của người Tàu coi trọng gia tộc, thị tộc và không hề có quốc tộc.
(Tôn Dật Tiên được người Tàu kính phục gọi là "cha già dân tộc", là anh em cột chèo với Mao Trạch Đông. Là lãnh tụ Quốc Dân Đảng nhưng vẫn được Cộng Sản Tàu kính nể và sùng bái.)
Đọc lịch sử Tàu, chúng ta thấy họ không đề cập đến tên nước, tức quốc hiệu. Họ chỉ gọi từng giai đoạn lịch sử bằng tên của triều đại làm vua như Hán (漢), Đường (唐), Minh 明, Tần 清 v.v…
Mãi tới sau cách mạng song thập 10 tháng 10 năm Tân Hợi 1911, nước Tàu mới chính thức có tên nước là Trung Hoa Dân Quốc (mà sau này khi chạy ra Đài Loan, thống tướng Tưởng Giới Thạch vẫn dùng quốc hiệu này). Trong khi đó, Cộng Sản chiếm đại lục xưng là Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa mà người Việt Nam trước kia thường gọi tắt là Trung Cộng. (Sau này, người ta quen dùng chữ Trung Quốc để chỉ Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa).
Phương tây gọi nước Tàu là China. Tên gọi China này, theo https://en.wikipedia.org/wiki/Names_of_China :
Tên China bằng tiếng Anh có nguồn gốc từ tiếng Bồ Đào Nha vào thế kỷ 16, và trở thành cách xử dụng phổ biến vào giữa thế kỷ 19. Nó được cho là sự vay mượn từ tiếng Ba Tư Trung Cổ, và một số đã truy tìm nó từ tiếng Phạn. Người ta cũng cho rằng nguồn gốc cuối cùng của tên gọi China là từ tên nhà Tần秦 phiên âm thành "Qin”.
Xưa nay người Việt Nam chúng ta thường dùng chữ “Tầu” (hay Tàu) để chỉ nước hay người, đồng thời cũng dùng những tên gọi người như Đường nhơn, Tần nhơn, hay người Hán.
3- Khuếch đại văn minh, văn hóa lịch sử như marketing/tiếp thị một món hàng ra thị trường
Nước có diện tích lớn và dân đông (nhất thế giới) này đã có truyền thống khuếch đại lịch sử, văn hóa của họ ra thế giới từ lâu, đã từng thu hút những người phương tây “thám hiểm” phương đông khai thác, quảng bá rộng rãi và nở rộ thời chiến tranh nha phiến kéo dài trong “nỗi nhục trăm năm” của nước Tàu. Sách in, bài nghiên cứu và ngày nay trên mạng internet cứ thế lan truyền và được nhiều người xử dụng (và chấp nhận chung chung) mà không cần truy nguyên chính xác hay không.
Trong gần nửa thế kỷ qua, mấy triệu người Việt Nam chúng ta đã hiện diện ở nhiều nước trên thế giới, có cơ hội sưu tầm, tìm đọc tư liệu lịch sử. Một số người có lòng, dù không có chuyên môn cao, đã góp nhặt được một số tư liệu quý giá. Nhờ internet nở rộ, không gian truyền đạt không còn bị giới hạn, các tư liệu thâu nhặt ấy đã được in thành sách, viết thành bài, truyền tải trên các website và mạng xã hội, cùng với sự phản hồi, tiếp sức. Gần đây, một số tác giả đã dịch các nghiên cứu, khám phá của mình ra tiếng nước ngoài, đặc biệt là tiếng Anh. (XEM PHỤ CHÚ BÊN DƯỚI)
Ngày nay, sự khuếch đại có hệ thống của giới tinh hoa Tàu về chính văn minh, văn hóa và lịch sử của họ không khác gì việc marketing/tiếp thị một món hàng ra thị trường, cốt để câu khách, bán được nhiều hàng.
4- Khuếch đại tiêu biểu từ Khổng Tử tới Chu Hy
Học trò Khổng Tử đã từng kính cẩn lặp lại sự xưng tụng mà bậc thầy muôn đời (vạn thế sư biểu) của họ xưng tụng. Trong bài này chúng tôi đề cập đến sự sùng bái của Khổng Tử với Chu Công (Đán) đồng thời cũng đề cập đến trường hợp học giả Chu Hy đời Tống sùng bái Văn vương của nhà Chu.
Cần nhắc quý độc giả, khi đọc các bài viết liên quan đến cổ sử, hãy cố tra cứu niên đại, nếu tác giả không ghi thì tự độc giả tìm để so với những nghiên cứu khám phá mới, từ khảo cổ, ngữ hệ, văn minh, di truyền. Cũng cần ghi chú cho rõ nguyên tên của tác giả các công trình nghiên cứu đó, nội dung của công trình, năm công bố, đã in thành sách hay công bố trên tạp chí chuyên ngành v.v...
Câu nói được cho là xưng tụng Chu Công hết mực của Khổng Tử là ông ta thường mơ thấy Chu Công. Vì Khổng Tử coi Chu Công là bậc chân lý, Khổng Tử mong muốn được vươn tới. Không chỉ cá nhân Chu Công Đán mà Khổng Tử luôn ca ngợi thành tựu văn hóa triều Chu và cho rằng đó là khuôn mẫu để đời sau noi theo.
5- Chu Công là ai?
Cơ Đán sinh năm 1143 TCN – không rõ năm chết, là con thứ tư của Cơ Xương (Xương sau này được con là Vũ vương Cơ Phát truy phong là Văn vương). Cơ Đán là em của Cơ Phát (Vũ vương). Được phong tước công nên được gọi là Chu công. Ông là nhân vật có nhiều đóng góp trong việc nhà Chu “được thiên hạ” cũng như nhiếp chính thay cháu còn nhỏ suốt 7 năm. Sau khi trao ngai vàng lại cho cháu là Thành vương, ông còn giúp củng cố triều đình, đặt nền móng mà triều Chu áp dụng suốt gần 800 năm. Có điều lạ là, một khai quốc công thần nổi tiếng như vậy mà ghi chép sử của Tàu không biết rõ ông chết năm nào!
Khổng Tử xưng tụng Chu công về quy định lễ nhạc, trong đó có quy định rõ nét về “ngũ phục”, năm loại quần áo mặc khi thọ tang và “ngũ lễ” gồm tân, quân, gia, tam tòng, tứ đức.
Bài này cũng nói về Chu Hy vì Chu Hy cho rằng Văn vương có công giáo hóa các nước mà Tàu miệt thị gọi là “man”, trong đó có “Nam man” – chỉ Việt tộc ở đồng bằng sông Dương Tử.
6- Chu Hy là ai?
Sinh 1130, mất 1200, người sống vào thời nhà Tống, cách thời nhà Chu 2000 năm. Chu Hy là học giả Tàu nổi tiếng chỉ sau Khổng Tử. Chu Hy là người duy nhất được thờ trong nhà thờ Khổng Tử. Trong phần bình giải Kinh Thi, Chu Hy luôn đặt khuôn thước Văn vương giáo hóa thiên hạ, nhờ sự giáo hóa này mà các nước chư hầu mới được có kỷ cương, được văn minh (nhà Chu) soi rọi.
Ảnh hưởng của cả Khổng Tử và Chu Hy lên lịch sử, văn hóa Tàu từ xưa đến nay rất lớn. Ảnh hưởng này lan truyền ra thế giới, xưa nay ai cũng căn cứ vào đó và tin đó là thật.
7- Có thiệt như Khổng Tử và Chu Hy xưng tụng?
Thời Văn vương (1154-1046 TCN) và Chu công (1143 - ? TCN) bộ lạc Chu là chư hầu nhỏ của nhà Thương. Con của Văn vương là Cơ Phát nối ngôi, có Cơ Đán (Chu công sau này) phụ tá mở trận Mục Dã vào năm 1046 TCN. Trước khi tấn công phạt Trụ (vua cuối nhà Thương), Chu công soạn Mục Thệ (Lời thề của du mục) cho Cơ Phát đọc (sau trận này Cơ Phát làm vua là Vũ vương, lập nên nhà Chu). Nguyên bản Mục thệ trong Thượng Thư, đã được Nhượng Tống dịch và xuất bản năm 1940.
Như vậy, đến khi Vũ vương lập nhà Chu, dân Tàu vẫn sống đời du mục. Trong khi đó, các công trình nghiên cứu, khảo cổ nhiều năm qua được công bố khắp thế giới rằng: Hơn 5.000 năm TCN, tộc Việt đã trồng lúa ở vùng đồng bằng sông Dương Tử.
(Tìm đọc các bài khác liên quan đến những bằng chứng khảo cổ, di truyền, ngữ hệ của các nhà khảo cứu quốc tế công bố về vùng đất của tộc Việt ở đồng bằng sông Dương Tử, trong đó có giai đoạn của nước Xích Quỷ và Văn Lang, cho thấy nước ta xưa kia rộng lớn lắm)
Muốn trồng lúa, người Việt phải sống định cư. Sống định cư, tồn trữ văn hóa. Sống du mục, rày đây mai đó, văn hóa vung vãi.
Nói rằng Văn vương và Chu công giáo hóa thiên hạ, định ra phép tắc nghi lễ, đặt nền móng cho thiên hạ. Căn cứ vào văn hóa vung vãi của dân du mục ư?
Lấy đâu ra lễ nghĩa để làm mẫu mực giáo hóa thiên hạ? Cả Văn vương và Chu công cai trị dân du mục và các bộ tộc du mục của họ thời ấy (1100 TCN), không thấy có chứng minh là dân du mục có lễ nghĩa đủ để giáo hóa cho cả thiên hạ, trong đó Việt tộc đã định cư trồng lúa dọc lưu vực sông Dương Tử (trước nhà Chu bốn ngàn năm). Về đạo đức, giềng mối gia đình tôn tri trật tự thì hãy nhìn vào kỷ cương, những vụ tai tiếng ngay trong triều đình nhà Chu tiêu biểu như:
- Vợ của Chu Tương vương (651-619 TCN) Thúc Ngỗi nổi tiếng đẹp và dâm dật, đã thông dâm với em ruột chồng là vương tử Đái. Mẹ của Chu Tương vương (và vương tử Đái) biết chuyện gian dâm này nhưng không can ngăn. Kết cục, khi biết chuyện, Chu Tương vương cầm kiếm muốn vào cung của mẫu hậu (Huệ hậu) để giết gian phu, dâm phụ là em ruột và vợ của mình. Nhưng sợ tiếng đời cho rằng phạm tội bất hiếu với mẹ nên vương phế Thúc Ngỗi. Vương tử Đái bỏ trốn sang nước Địch mượn lính nước này quay về đánh nhà Chu. Kinh thành nhà Chu bị bao vây, Đái thắng, Chu Tương vương bỏ chạy qua đất Trịnh. Đái cứu được Thúc Ngỗi, lên làm vua và phong Thúc Ngỗi làm hoàng hậu.
- Chị ruột của Chu Tương vương là vợ của Tống Tương công. Bà là mẹ của Tống Thành công (Vương Thân) và là tổ mẫu của Tống Chiêu công (Chữ Cữu). Tống Chiêu công có em ruột là công tử Bảo nổi tiếng đẹp trai, bà tổ mẫu của công tử Bảo đem lòng yêu và hứa với Bảo sẽ tìm cách đưa Bào lên ngôi. Bảo giết anh lên làm vua là Tống Tương công.
Còn vô số trường hợp tương tự xảy ra như thế trong nhiều chư hầu thuộc nhà Chu. Kể ra sẽ rất dài.
Giáo hóa thiên hạ dưới cả vòm trời (như Khổng Tử và Chu Hy xưng tụng), sao chưa giáo hóa được chính trong vương triều Chu và các chư hầu thống thuộc của nhà Chu?
8- Tiếng than từ cửa miệng Khổng Tử
Sau Văn vương và Chu công nửa thế kỷ, vào năm 479 TCN, Khổng Tử san định xong Kinh Xuân Thu. Cho tới nay, người Tàu vẫn bất đồng việc Khổng Tử viết hay san định hoặc ghi lại Kinh Xuân Thu.
Mạnh Tử cho biết lý do Khổng Tử viết Kinh Xuân Thu là:
"Khổng Tử viết kinh Xuân Thu khiến cho loạn thần, tặc tử sợ":
世衰道微,邪說暴行有作。臣弒其君者有之,子弒其父者有之。孔子懼,作《春秋》
Khổng Tử thừa nhận có loạn thần, tặc tử thời nhà Chu và các chư hầu!
Trong Luận Ngữ, Khổng Tử từng than:
子曰:甚矣吾衰也!久矣吾不复梦见周公。
Phiên âm:
Tử viết: Thậm hĩ ngô suy dã ! Cửu hĩ ngô bất phục mộng kiến Chu công.
Dịch nghĩa:
Khổng tử: Ta già yếu lắm rồi, từ lâu ta không nằm mộng thấy Chu công.
Qua một vài dẫn chứng tiêu biểu bằng chính cổ thư, sử sách của Tàu, chúng ta đã thấy được sự thật: Vương triều nhà Chu và các chư hầu, cho tới thời Khổng Tử (Xuân Thu Chiến Quốc) vẫn còn “thói nào tật nấy”, kế thừa “văn hóa du mục”: rày đây mai đó, vung vãi cát bụi, bạ đâu xâu đó không khác gì các loài không phải là người.
Để kết thúc, mời quý vị đọc một truyện tiếu lâm về giấc mơ Chu Công trong Tiếu Lâm Quảng Ký năm 2007, với bản dịch của Huỳnh Chương Hưng: https://www.chuonghung.com/2016/09/dich-thuat-mong-chu-cong.html
梦周公
一师昼寝, 而不容学生磕睡. 学生诘之, 师谬言曰: “我乃梦周公也.” 明昼, 其徒亦效之, 师以戒方击醒曰: “汝何得如此?”徒曰: “亦往见周公耳.” 师曰: “周公何语?” 答曰: “周公说, 昨日并不曾见尊师.”
(笑林广记)
MỘNG CHU CÔNG
Nhất sư trú tẩm, nhi bất dung học sinh khái thuỵ. Học sinh cật chi, sư mậu ngôn viết: “Ngô nãi mộng Chu Công dã.” Minh trú, kì đồ diệc hiệu chi, sư dĩ giới phương kích tỉnh viết: “Nhữ hà đắc như thử?” Đồ viết: “Diệc vãng kiến Chu Công nhĩ.” Sư viết: “Chu Công hà ngữ?” Đáp viết: “Chu Công thuyết, tạc nhật tịnh bất tằng kiến tôn sư.”
(Tiếu lâm quảng kí)
MỘNG CHU CÔNG
Một ông thầy hay ngủ ngày, nhưng lại không cho học trò ngủ gục. Học trò cật vấn, thầy nói xằng rằng: “Ta đi gặp Chu Công đấy.” Ngày hôm sau, học trò cũng bắt chước thầy ngủ, thầy lấy thước đánh thức, hỏi: “Sao trò lại như thế?” Học trò nói rằng: “Con cũng đi gặp Chu Công đó.” Thầy lại hỏi: “Thế Chu Công nói gì?” Học trò đáp rằng: “Chu Công bảo rằng, hôm qua không hề gặp thầy.”
Chú của người dịch
TIẾU LÂM QUẢNG KÍ笑林广记:tập truyện cười do Du hí chủ nhân 游戏主人 đời Thanh thu thập biên soạn thành. Toàn sách chia làm 12 bộ, gồm:
- Cổ diễm bộ 古艳部 - Hủ lưu bộ 腐流部 - Thuật nghiệp bộ 术业部
- Hình thể bộ 形体部 - Thù bẩm bộ 殊禀部 - Khuê phong bộ 闺风部
- Thế huý bộ 世讳部 - Tăng đạo bộ 僧道部 - Tham lận bộ 贪吝部
- Bần cũ bộ 贫窭部 - Cơ thích bộ 讥剌部 - Mậu ngộ bộ 谬误部
Những truyện cười trong Tiếu lâm quảng kí đa phần là của hai đời Minh Thanh, hình thức chủ yếu là những đoạn văn ngắn.
Truyện Mộng Chu Công ở Hủ lưu bộ
Huỳnh Chương Hưng
Quy Nhơn 19/9/2016
TIẾU LÂM QUẢNG KÍ
笑林广记
(Thanh) Du Hí chủ nhân 游戏主人 biên soạn
Tang Thánh Đồng 桑圣彤 chú dịch
Sùng Văn thư cục, 2007.
LÊ THANH HOA
(21 tháng 2 năm 2022)
PHỤ CHÚ:
Đây là cái nhìn từ nhóm nhỏ của chúng tôi, thuộc Thư Viện Việt Nam tại Hoa Kỳ, chỉ có chưa tới 10 anh chị em, không thuộc giới nghiên cứu nhà nòi, nhất là về lịch sử, khảo cổ, ngữ học, di truyền. Suốt từ ngày thành lập (1999) đến nay, chúng tôi đã tìm được, so đọ để phân biệt thiệt giả, một số tư liệu lịch sử từ nhiều nguồn, đông cùng tây phương, cùng chia nhau thực hiện chuyển ngữ, phân tích và cho in thành sách. Về lãnh vực lịch sử dân tộc, nhóm chúng tôi đã cho in thành sách và phát hành 2 cuốn:
1: Bách Việt Tiên Hiền Chí (Lĩnh Nam Di Thư) của sử gia người tộc Việt là Âu Đại Nhậm (làm quan dưới triều Minh), được nhà văn, nhà báo, thầy giáo Trần Lam Giang dịch và chú thích (xuất bản 2006, tái bản 2012)
2: Việt Nam: Suối Nguồn Văn Minh Phương Đông, tác giả Du Miên Lê Thanh Hoa (xuất bản 2008, tái bản 2 lần 2009 và 2010), dịch sang tiếng Anh (Dr. Josepth Mỹ Võ, Ph.D): Vietnam: The Springhead of Eastern Cultural Cibilization (xuất bản 2010). Các sách này đã được nhiều cá nhân, trang mạng internet phổ biến rộng rãi, kể cả download free.
MỜI ĐỌC THÊM: (nhấn vào tựa để đọc)
1- TRẦN TRIỀU HIỂN THÁNH CHÍNH KINH VĂN
2- TÌM LẠI SỰ THẬT VỀ CUỘC KHỞI NGHĨA THỜI HAI BÀ TRƯNG
3- TÀU+ PHỤC THÙ “100 NĂM Ô NHỤC” ĐÁNH GỤC HOA KỲ\
4- VUA NGHIÊU, SỨ VIỆT, RÙA THẦN: THÔNG ĐIỆP VƯỢT VẠN DẶM CỦA TIỀN NHÂN VIỆT
5- TẠI SAO “NAM QUỐC” MÀ KHÔNG LÀ “VIỆT QUỐC” TRONG BÀI THƠ “NAM QUỐC SƠN HÀ’?
6- 2 LOẠT BẢN ĐỒ NỔI TIẾNG THẾ GIỚI VẼ LẠI DÃ TÂM CỦA TÀU PHÙ BÀNH TRƯỚNG LÃNH THỔ
7- BÁ CÁO BẢN ĐỒ “TRƯỜNG CHINH CƯỚP CHIẾM” CỦA CHINA
8- NƯỚC XÍCH QUỶ - VĂN LANG CÓ THẬT
9- Ý NGHĨA QUỐC HIỆU THỜI KHAI SÁNG ĐẤT NƯỚC
10- TRƯNG BẰNG CHỨNG QUÂN ÂN THƯƠNG ĐÁNH XÍCH QUỶ: TRUYỆN PHÙ ĐỔNG THIÊN VƯƠNG CÓ THẬT
11- TÊN VIỆT LÀ DO TỔ TIÊN CHÚNG TA ĐẶT RA – DỨT KHOÁT KHÔNG PHẢI DO BỞI NGƯỜI TÀU