Bấy giờ tiếng Thị Điểm lừng lẫy chốn kinh thành. Các học trò hay chữ ai cũng muốn trêu ghẹo. Một hôm có Nguyễn Huy Kỳ ở Thụy Nguyên, Trần Danh Tân ở Cổ Am, Nguyễn Bá Cư ở Cổ Đô, Võ Toại ở Thiên Lộc, bốn người ấy có tiếng hay chữ, người ta thường gọi là “Tràng an tứ hổ” (nghĩa là bốn con hổ ở chỗ Tràng an). Bốn người đến chơi tận nhà Thị Điểm, muốn thử làm thơ với nhau....
Người làng Tả Ao, huyện Nghi Xuân, tỉnh Nghệ An, tên là Nguyễn Đức Huyên (có bản nói là Hoàng Chỉ). Nhân tên làng, cho nên tục gọi là Tả Ao. Lúc còn trẻ nhà nghèo lắm, mẹ phải bệnh lòa mắt, Tả Ao mới theo người khách buôn ở phố Phù Thạch về Tàu, để lấy thuốc chữa mắt cho mẹ. Thầy thuốc khen là người có hiếu, mới dạy cho phép làm thuốc. Học thành nghề mới trở về, xảy có một thầy địa lý chính tông đau mắt, sai người mời thầy thuốc đến chữa, thầy thuốc già yếu không đi được, mới sai Tả Ao đi chữa thay. Thầy địa lý khỏi đau mắt, thấy Tả Ao có ý tứ khôn dễ dạy, và cảm cái ơn chữa khỏi cho mình, mới truyền cho Tả Ao phép làm địa lý, Tả Ao học hơn một năm đã giỏi. Thầy địa lý muốn thử xem sức học làm sao, đổ cát làm ra hình sông núi, rồi yểm 100 đồng tiền xuống dưới cát, và cho Tả Ao 100 cái kim sai tìm huyệt mà cắm kim vào lỗ đồng tiền...
Từ Đạt người ở Khoái Châu (Hưng Yên), làm quan ở huyện Đông Quan. Gần đấy có quan Thiêm thư là Phùng Lập Ngôn. Hai người đi lại chơi bời với nhau thân thiết lắm. Phùng có con trai tên là Trọng Quì, Từ có con gái tên là Nhị Khanh, hai bên trai tài gái sắc, tốt lứa đẹp duyên, mới kết duyên Châu Trần với nhau. Nhị Khanh tuy còn ít tuổi, nhưng về làm dâu nhà họ Phùng, hiền hậu hòa thuận, ai cũng khen là người nết na. Trọng Quì tính hay chơi bời, nàng kia khuyên ngăn mãi không được.
Cạnh làng ấy có một cái đền, xưa nay linh ứng lắm. Tự khi cuối nhà Hồ, quân Tàu sang xâm chiếm, ở xứ ấy làm nơi chiến trường. Có tên bộ tướng của Mộc Thạnh là Thôi Bách Hộ chết trận ở đấy thành ra yêu quái, dân gian lắm người khuynh gia bại sản để cầu cúng mà không yên. Ngô Tử Văn thấy vậy tức lắm, tắm gội khấn trời mà đốt cái đền ấy. Tử Văn đốt xong trở về, nghe trong mình hơi khác, rồi thì rùng mình nhức đầu, nổi cơn sốt rét mà người thì mê mẫn bàng hoàng. Trông thấy một người to lớn lực lưỡng, đội mũ mặc áo, ra dáng người Tàu, tự xưng là Cư sĩ, bắt phải làm đền lại miếu khác, không có thì sinh vạ.
Lúc nhà Lê trung hưng, việc binh cách mới yên, sinh lắm yêu quái, dân gian khổ sở. Bấy giờ người làng An Đông, huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hóa, tên là Trần Lộc, có phép phù thủy. Một bữa, Trần Lộc đi qua trái núi Na Sơn, đang lúc mùa hè nắng nực mới nghỉ mát ở dưới rặng tre. Sực ngẩng đầu trông lên trên núi, thấy có một ông cụ già đầu bạc phơ, đang đứng dựa cạnh sườn đá ngóng xem rừng rú, rồi cầm nón vẫy Trần Lộc lên. Trần Lộc xắn áo trèo lên, chiều tối mới đến đỉnh núi, cúi đầu lạy ông cụ ấy....
Người làng Đàm Xá, phủ Tràng An (Nam Định) tên là Nguyễn Chi Thành. Lúc nhỏ đi học, xẩy gặp Từ Đạo Hạnh, mới theo học Đạo Hạnh hơn 40 năm . Đạo Hạnh khen là người có chí, cho ấn quyết và đổi tên gọi là Minh Không thiền sư cho ở riêng một chùa Quốc Thanh. Khi Đạo Hạnh sắp hóa , bảo Minh Không rằng: - Ngày xưa phật Thế tôn ta, đạo quả đã tròn trặn, mà còn có báo kim tảo, huống chi lâu nay phép đạo suy mòn, thì ta giữ mình làm sao cho xiết được. Kiếp sau ta ở thế gian, giữ ngôi nhân chủ, chắc là không khỏi được bệnh nợ, ngươi nên nghĩ nghĩa thầy trò, đến bấy giờ phải cứu cho ta.
Từ Lộ tự Đạo Hạnh, người làng An Lãng (tức là làng Lãng) huyện Vĩnh Thuận (Hoàn Long), làm thầy cúng ở chùa Tiên Phúc, núi Phật Tích (tức là chùa Thầy ở Sơn Tây). Khi xưa thân phụ Từ Đạo Hạnh là Từ Vinh làm Tăng quan đô sát triều nhà Lý, thường vào chơi làng An Lãng, mới làm nhà ở đấy, lấy con gái họ Lăng, sinh ra Đạo Hạnh. Đạo Hạnh lúc còn bé hay chơi bời, nhưng vẫn có chí, cùng với Phí Sĩ, Phan Ất, Lê Hoàn kết bạn, đêm thì cố công đọc sách, ngày thì đàn sáo đánh bạc làm vui. Cha thường vẫn trách mắng là biếng học, nhưng sau biết cứ đến đêm thì chăm học lắm, từ bấy giờ mới không nói gì nữa.
Phạm Viên người làng An Bài huyện Đông Thành tỉnh Nghệ An. Đời ông tổ Phạm Viên hiền lành phúc hậu, gặp được người Tàu để cho ngôi mộ, đoán rằng: “Ngôi này phát một đời Tiến sĩ, một đời thành tiên”. Đời con ông cụ ấy là Phạm Chất đỗ Tiến sĩ về thời vua Trần Tôn nhà Lê, làm đến Tả thị lang. Phạm sinh ra hai con, con cả là Phạm Tán, con thứ là Phạm Viên.
Có một hôm, chùa Ngọc Hồ mở hội, Tú Uyên đi xem. Đến chiều trở về qua chùa Tiên Tích (ở phố cửa Nam) trông thấy một người con gái đẹp lắm, đang đứng ở dưới gốc cây đu. Tú Uyên lại gần hỏi chuyện, rồi hai người vừa đi vừa đối đáp với nhau, đến chỗ đình Quang Minh thì người con gái ấy biến mất, mới biết là tiên... Tú Uyên đứng ngẩn ra một lúc, mới trở về nhà. Từ đấy đêm ngày tưởng nhớ, phải bệnh tương tư thuốc nào chữa cũng không khỏi. Một hôm, nhớ đến sự bói thẻ, mới đến đền Bạch Mã xin thẻ, rồi nằm mộng ở đấy. Đêm thần báo mộng rằng: “Sáng sớm mai, ra cổng cầu Đông sông Tô Lịch thì gặp”.
Tháng hai năm Đinh tị (1396), chính giữa hôm hội, có một cô ả nhan sắc mĩ miều, mới độ 15, 16 tuổi, son phấn điểm nhạt mặt mũi tươi dòn. Đến xem hoa nhỡ tay vịn gẫy mất một cành, bị nhà chùa bắt giữ lại. Từ Thức xẩy đi qua trông thấy, hỏi cơn cớ đầu đuôi, rồi cổi áo cẩm bào chuộc cho ả ấy đi... Nhân bảo con hầu gọi một người con gái ra. Từ Thức trông ra thì chính là người con gái đánh gẫy cành hoa mẫu đơn khi trước. Bà tiên trỏ vào con gái bảo với Từ Thức rằng: - Con em tên nó là Giáng Hương, khi trước xem hoa phải cái ách nạn, nhờ ngươi cứu cho, ta vẫn còn hàm cái ân ấy, nay muốn cho nó kết duyên với ngươi để báo ân....
Chúng tôi sử dụng cookie để cung cấp cho bạn trải nghiệm tốt nhất trên trang web của chúng tôi. Nếu tiếp tục, chúng tôi cho rằng bạn đã chấp thuận cookie cho mục đích này.