ĐỀN THỜ ĐỨC THÁNH TRẦN - LITTLE SAIGON  - WESTMINSTER - CALIFORNIA
TRẦN HƯNG ĐẠO FOUNDATION (ĐỀN THÁNH TRẦN LITTLE SAIGON)
9078 BOLSA AVENUE tức ĐẠI LỘ TRẦN HƯNG ĐẠO - WESTMINSTER - CA 92683
ĐIỆN THOẠI: (657) 296-7889 | EMAIL: denthanhtran2022@gmail.com| WEBSITE: https://denthanhtran.org và tranhungdaofoundation.org
MỞ CỬA HÀNG NGÀY TỪ 10 GIỜ SÁNG ĐẾN 4 GIỜ CHIỀU KỂ CẢ CUỐI TUẦN & NGÀY LỄ - CHÀO CỜ THỨ BẢY MỖI ĐẦU THÁNG LÚC 10AM

NAM HẢI DỊ NHÂN LIỆT TRUYỆN (KỲ 9: LƯƠNG HỮU KHÁNH)

27 Tháng Chín 20224:00 CH(Xem: 2236)
PG 1 NHDN


NAM HẢI DỊ NHÂN LIỆT TRUYỆN
PHAN KẾ BÍNH - Kim-giang LÊ VĂN PHÚC


nhdn lhk 1

LƯƠNG HỮU KHÁNH

Chi họ Lương ở Thanh Hóa, phong phú có tiếng nhất ở vùng ấy. Tổ họ ấy khi xưa sinh được ba con trai, thành ra ba chi. Đang khi cuối nhà Trần loạn lạc, một chi xiêu dạt sang Tàu, ngụ ở tỉnh Vân Nam. Có người làm nên, đời đời được tập phong tước vương. Một chi thiên ra ở xã Tào Sơn huyện Ngọc Sơn, cũng kế thế đăng khoa. Còn một chi thì ở xã Hội Trào, huyện Hoằng Hóa, sinh ra ông Lương Đắc Bằng, đỗ Bảng nhãn trong thời Cảnh Thống đời vua Hiến Tôn nhà Lê.

Lương Đắc Bằng vì có người họ ở Tàu, mới mua được nhiều thứ sách quí, cho nên học giỏi về nghề lý số. Ngoại 50 tuổi, chưa có con trai, chỉ có người vợ lẽ có mang được ba tháng. Khi gần mất, dặn vợ lẽ rằng:

- Nếu mai sau sinh được con trai, thì tất nó làm nên công danh sự nghiệp, tỏ rạng cửa nhà. Khi nào con lớn, thì nên cho đến học ông Trạng Trình ở huyện Vĩnh Lại, thì mới giữ được nền nếp nhà ta.

Nói đoạn thì mất. Về sau người vợ lẽ quả sinh được con trai, mới đặt tên là Hữu Khánh.

Hữu Khánh thông minh sớm, mười tuổi đã biết làm văn, mà sức ăn cực khỏe, thường ăn gấp ba bốn phần người thường mới no. Mẹ lắm khi phải nhịn đói để con ăn.

Nhà ông ấy nghèo, mới bảo với mẹ rằng:

- Cha tôi khi xưa làm quan thanh liêm, đến nỗi con cháu không đủ cơm cháo mà ăn. Vậy mẹ cho tôi đi nơi khác, tùy đường kiếm ăn, kẻo để phiền đến bụng mẹ.

Mẹ buồn rầu nói rằng:

- Mẹ con không nuôi được nhau, đến nỗi để con đi tha phương cầu thực, mẹ lấy làm đau xót ruột lắm.

Nói thế rồi, ứa hai hàng nước mắt. Ông ấy từ mẹ đi ra, sang các nhà học trò bên cạnh huyện ngâm thơ làm phú để độ thân.

Một khi đi qua bến đò sông Tam Kỳ, gặp 5, 6 nhà sư tự đám chay về, mang một cái đẫy có 100 phẩm oản. Nhà sư thấy ông ấy có dáng đói, cho vài chiếc oản. Ông ấy từ nói rằng:

- Học trò nghèo nhịn đói, đã mấy hôm nay, may gặp được Đại bồ tát, tưởng là có bụng bố thí làm sao, lại bủn xỉn cho được vài phẩm oản, thì ăn chả bõ dính mồm.

Có một nhà sư già cười nói rằng:

- Thầy kia đã gọi là học trò, thì thử làm một bài thơ “Học trò đi thuyền chung với nhà sư”, hễ sang khỏi sông mà xong bài thơ, thì có bao nhiêu oản xin biếu cả.

Ông ấy ngồi trong thuyền, ngâm ngay một bài thơ như sau này:

Một pho kinh sử bộ kim cương,

Đây đấy cùng thuyền khéo một đường.

Trong hội cồ đàm ngươi thỏa thích

Trên ngôi đài các tớ nghênh ngang.

Truyện xưa ngươi vẫn căm Hàn Dũ (1)

Việc trước ta còn oán Thủy Hoàng (2)

Gặp gỡ mảy may rồi lại biệt,

Kể tròn quả phúc, kẻ vinh xương.

Chưa sang khỏi đò đã vịnh xong bài thơ. Nhà sư mừng rỡ, dốc cả đẫy oản ra cho ông ấy. Ông ấy ngồi ngay đầu thuyền ăn một lúc hết 80 phẩm oản. Người trong thuyền ai cũng ngạc nhiên, nhà sư lấy làm kỳ dị, lại tặng thêm một quan tiền nữa và nói rằng:

- Thầy có tài như thế, nay tuy còn ở trong trần ai, nhưng tất có ngày làm nên hách dịch. Sư nghèo này xin dâng một bữa, ngày sau có đắc chí, đánh dẹp đốt phá ở đâu, thì xin chừa những nơi chùa chiền ra, mới là ân huệ.

Sang khỏi đò, ông ấy từ bọn sư rồi đi. Bấy giờ đang lúc Lê, Mạc đánh nhau, dân xã điêu tàn, ông ấy đi đến đâu, không một kẻ nào nhìn đến, có khi ba ngày mới được ăn một bữa, thường vẫn phải làm mướn kiếm ăn.

Một buổi sớm, đến làng Vĩnh Trị, gặp một bà già ra chợ, gọi người thuê làm ruộng hoang. Hỏi mấy mẫu, thì bà già đưa đến chỗ ruộng sâu, trỏ ra bảo rằng:

- Chỗ ruộng kia nước sâu, mà cỏ mọc bùm tum, ước chừng năm mẫu.

Ông ấy bảo rằng:

- Bà cụ về nhà thổi cơm độ mười người ăn, và đem sẵn tiền gạo thuê công đến bờ ruộng này, để tôi gọi giúp người làm cho.

Bà kia y lời ấy trở về làm cơm. Ông ấy mới cầm một con dao to lội xuống ruộng dọn cỏ, chưa đến buổi trưa, đã dọn quang cả 5 mẫu ruộng. Dọn xong, nằm ngủ dưới gốc cây, tiếng ngáy như sấm.

Một lát, bà già sai người nhà đem cơm đến, gọi ông ấy thức dậy, ông ấy ăn một lúc, hết cả hai mâm cơm, rồi lấy tiền gạo mà đi.

Chúng (3) tưởng là thần, dần dần mới biết là con quan Bảng nhãn ai nấy phàn nàn không ngần nào.

Đến năm 18 tuổi, nhớ lời cha dặn, mới đến học quan Trạng Trình. Bấy giờ học trò quan Trạng hơn 3.000 người, duy có ông Kế Khê là hay chữ nhất trường. Khi ông Hữu Khánh đến học, mới làm ba kỳ văn, đã đè trên ông Kế Khê.

Trình tiên sinh vốn là học trò ông Lương Đắc Bằng khi xưa, nay thấy con thầy đến học, hay chữ như thế, có bụng quí trọng trăm phần, thường tư cấp cho để mà học.

Bấy giờ nhà Mạc mở khoa thi, ông Lương Hữu Khánh vốn không có bụng làm quan với nhà Mạc, nhưng ngặt vì nhà nghèo và còn mẹ già, bất đắc dĩ phải ra thi. Khi thi thì bốn kỳ cùng thứ nhất, mà văn ông Kế Khê thì đỗ thứ nhì. Đến lúc hồi phách (4) quan Tràng thấy ông ấy là người Thanh Hóa, mới đánh xuống thứ nhì mà ông Kế Khê lên thứ nhất (vì bấy giờ tự Thanh trở vào thuộc về nhà Lê, tự Ninh Bình trở ra thuộc về nhà Mạc). Ông Hữu Khánh thấy xử thiên tư làm vậy, mới bỏ không vào thi đình nữa, vì thế ông Kế Khê mới đỗ Trạng Nguyên (5).

Khi ấy, Hữu Khánh trọ ở hàng Bông, một hôm để dành được 6, 7 đấu gạo, và hai lọ nước mắm, thổi cơm rồi trải chiếu xuống đất ngồi ăn, rung đùi đắc chí, cười vang lên nói rằng:

- Thế này chẳng kém gì mâm cơm nhà quan!

Xẩy có một ông quan tự trong triều trở về, nghe thấy tiếng cười nói, dừng xe lại nhìn, lấy làm kỳ dị cho 5 quan tiền, rồi tiến lên với vua nhà Mạc.

Vua Mạc sai sứ đến nhà trọ, khuyên dụ trăm điều, Hữu Khánh nhất định không ra làm quan. Tự bấy giờ lại đi bơ vơ, nay đây mai đó, con một nơi, mẹ một nẻo, trông cảnh động lòng, lắm phen chua xót.

Nhà Lê bấy giờ khởi quản ở phủ An Tràng, vốn nghe tiếng ông Hữu Khánh là người tài lạ, nhiều khi muốn sai người ra đón về giúp, nhưng vì đường xá xa khơi, đi lại gian hiểm, cho nên chưa có dịp nào mà đem về được.

Vài năm sau, Kế Khê được cầm quyền chính nhà Mạc, sai người tìm Hữu Khánh thì gặp cả hai mẹ con ở huyện Lục Ngạn tỉnh Bắc đem về. Kế Khê nghĩ tình bạn lưu ở trong nhà, cung đốn tử tế, và khuyên dỗ cho ra làm quan, nhưng Hữu Khánh biết cơ nhà Lê sắp trung hưng, có ý muốn phò nhà Lê, cho nên không ra làm quan với nhà Mạc.

Kế Khê biết ý Hữu Khánh, muốn đuổi đi nhưng không nói ra, nhân một bữa ở trong triều về, giả tảng nói rằng:

- Tôi hôm nay phụng chỉ làm một bài phú, nhưng việc quan bận bội lắm, nhờ anh làm giúp cho tôi.

Nói rồi, thò tay vào túi, lấy ra một mảnh giấy đầu bài, đưa cho ông Hữu Khánh. Hữu Khánh thấy đầu bài: “Tần quan văn kê” (6) biết là ý muốn đuổi mình, lập tức dặn mẹ đi lẻn ra bến Hoàng Liệt về Thanh Hóa trước, mà mình thì mật đưa một bài biểu vào An Tràng, hẹn ngày ấy thì đem thuyền ra đón tại cửa Thần Phù.

Được vài hôm, làm xong bài phú, để trên đầu giường, rồi lẻn ra đi gấp đường xuống cửa bể Thần Phù. Khi Kế Khê ở trong triều trở về, đến nhà học, không thấy ông Hữu Khánh đâu, cho đi hỏi khắp cả các nhà anh em bạn học, cũng không thấy tin tức gì cả. Xẩy thấy trên đầu giường có bài phú, trong bài có câu rằng: “Lưu khách hóa ra đuổi khách”. Kế Khê ngạc nhiên nói rằng:

- Anh này đi mất, triều đình còn là nhiễu về anh này!

Lập tức sai quân đi các ngả đuổi theo bắt về. Khi Hữu Khánh đến cửa Thần Phù, thì vua Lê đã sai năm chiếc thuyền chiến và 1.000 quân ra đón. Hữu Khánh vừa bước chân xuống thuyền thì quân nhà Mạc đuổi theo vừa đến.

Hữu Khánh ngồi trong thuyền gọi to lên bảo rằng:

- Gửi lời các anh, về tạ ông Kế Khê, ngày sau ta sẽ xin đền trả ơn.

Khi về đến cửa phủ An Tràng, vua Lê mừng rỡ lắm, cử làm Thị lang, cho tham tá việc quân cơ. Hữu Khánh bầy ra mưu mẹo gì cũng đắc cả, vua tin dùng hơn cả mọi người, sai cầm riêng một đạo quân đi dẹp giặc. Hữu Khánh nhớ đến lời nhà sư khi trước, phàm các trận mạc, thấy chỗ nào đồn giặc đóng cạnh chùa chiền, thì rút quân lảng đi không đánh, để tránh sự phá hại nhà chùa.

Về sau làm đến Binh bộ thượng thư, công nghiệp hiển hách vào bậc danh thần đời trung hưng.

CHÚ THÍCH:
(1) Hàn Dũ đời nhà Đường, xin hủy tượng Phật và đốt sách Phật.

(2) Thủy Hoàng chôn học trò và đốt sách nho.

(3) Dân chúng, chỉ mọi người (BT).

(4) Quyển thi rọc tên ra, gọi là rọc phách. Đến lúc chấm văn xong lại dán tên lại gọi là hồi phách.

(5) Thế mới biết chủ nghĩa lý lịch áp dụng trong thi cử đã có cội nguồn từ xa xưa! (BT).

(6) Nghĩa là cửa ải nhà Tần nghe tiếng gà gáy. Ngày xưa Mạnh Thường Quân ở nước Tần trốn về Tề, ra đến cửa ải thì cửa ải còn đóng chưa mở. Lệ lính canh ải, hễ gà gáy thì mới mở cửa cho khách đi lại. Trong bọn đầy tớ Mạnh Thường Quân, có người giả làm gà gáy. Các gà cạnh đấy tưởng là trời sắp sáng, đua nhau gáy ầm cả lên, lính canh mới mở cửa, Mạnh Thường Quân vì thế chạy được thoát.


MỜI ĐỌC TIẾP KỲ THỨ 10: PHẠM ĐÌNH TRỌNG



Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn