ĐỀN THỜ ĐỨC THÁNH TRẦN - LITTLE SAIGON  - WESTMINSTER - CALIFORNIA
TRẦN HƯNG ĐẠO FOUNDATION (ĐỀN THÁNH TRẦN LITTLE SAIGON)
9078 BOLSA AVENUE tức ĐẠI LỘ TRẦN HƯNG ĐẠO - WESTMINSTER - CA 92683
ĐIỆN THOẠI: (657) 296-7889 | EMAIL: denthanhtran2022@gmail.com| WEBSITE: https://denthanhtran.org và tranhungdaofoundation.org
MỞ CỬA HÀNG NGÀY TỪ 10 GIỜ SÁNG ĐẾN 4 GIỜ CHIỀU KỂ CẢ CUỐI TUẦN & NGÀY LỄ - CHÀO CỜ THỨ BẢY MỖI ĐẦU THÁNG LÚC 10AM

NGUYÊN TÁC VÀ CÁC BẢN DỊCH BÌNH NGÔ ĐẠI CÁO CỦA NGUYỄN TRÃI

18 Tháng Tư 201712:44 SA(Xem: 3122)
NGUYÊN TÁC VÀ CÁC BẢN DỊCH
BÌNH NGÔ ĐẠI CÁO
NGUYỄN TRÃI

 

(Tài liệu lịch sử tổng hợp từ nhiều nguồn)

 

BẢN CHÍNH

 

Nguyên bản Việt cổ (chữ Nho)

代天行化皇上若曰。

蓋聞:

仁義之舉,要在安民,

弔伐之師莫先去暴。

惟,我大越之國,

實為文獻之邦。

山川之封域既殊,

南北之風俗亦異。

自趙丁李陳之肇造我國,

與漢唐宋元而各帝一方。

雖強弱時有不同

而豪傑世未常乏。

故劉龔貪功以取敗,

而趙禼好大以促亡。

唆都既擒於鹹子關,

烏馬又殪於白藤海。

嵇諸往古,

厥有明徵。

頃因胡政之煩苛。

至使人心之怨叛。

狂明伺隙,因以毒我民;

惡黨懷奸,竟以賣我國。

焮蒼生於虐焰,

陷赤子於禍坑。

欺天罔民,詭計蓋千萬狀;

連兵結釁稔惡殆二十年。

敗義傷仁,乾坤幾乎欲息;

重科厚歛,山澤靡有孑遺。

開金場塞冒嵐瘴而斧山淘沙,

採明珠則觸蛟龍而緪腰汆海。

擾民設玄鹿之陷阱,

殄物織翠禽之網羅。

昆虫草木皆不得以遂其生,

鰥寡顛連俱不獲以安其所。

浚生靈之血以潤桀黠之吻牙;

極土木之功以崇公私之廨宇。

州里之征徭重困,

閭閻之杼柚皆空。

決東海之水不足以濯其污,

罄南山之竹不足以書其惡。

神民之所共憤,

天地之所不容。

予:

奮跡藍山,

棲身荒野。

念世讎豈可共戴,

誓逆賊難與俱生。

痛心疾首者垂十餘年,

嘗膽臥薪者蓋非一日。

發憤忘食,每研覃韜略之書,

即古驗今,細推究興亡之理。

圖回之志,

寤寐不忘。

當義旗初起之時,

正賊勢方張之日。

奈以:

人才秋葉,

俊傑晨星。

奔走先後者既乏其人,

謀謨帷幄者又寡其助。

特以救民之念,每鬱鬱而欲東;

故於待賢之車,常汲汲已虛左。

然其:

得人之效茫若望洋,

由己之誠甚於拯溺。

憤兇徒之未滅,

念國步之遭迍。

靈山之食盡兼旬,

瑰縣之眾無一旅。

蓋天欲困我以降厥任,

故與益勵志以濟于難。

揭竿為旗,氓隸之徒四集

投醪饗士,父子之兵一心。

以弱制彊,或攻人之不備;

以寡敵眾常設伏以出奇。

卒能:

以大義而勝兇殘,

以至仁而易彊暴。

蒲藤之霆驅電掣,

茶麟之竹破灰飛。

士氣以之益增,

軍聲以之大振。

陳智山壽聞風而;褫魄,

李安方政假息以偷生。

乘勝長驅,西京既為我有;

選兵進取,東都盡復舊疆。

寧橋之血成川,流腥萬里;

窣洞之屍積野,遺臭千年。

陳洽賊之腹心,既梟其首;

李亮賊之奸蠹,又暴厥屍。

王通理亂而焚者益焚,

馬瑛救鬥而怒者益怒。

彼智窮而力盡,束手待亡;

我謀伐而心攻,不戰自屈。

謂彼必易心而改慮,

豈意復作孽以速辜。

執一己之見以嫁禍於他人,

貪一時之功以貽笑於天下。

遂靈宣德之狡童,黷兵無厭;

仍命晟昇之懦將,以油救焚。

丁未九月柳昇遂引兵猶邱溫而進,

本年十月木晟又分途自雲南而來。

予前既選兵塞險以摧其鋒,

予後再調兵截路以斷其食。

本月十八日柳昇為我軍所攻,計墜於支稜之野;

本月二十日柳昇又為我軍所敗,身死於馬鞍之山。

二十五日保定伯梁銘陣陷而喪軀,

二十八日尚書李慶計窮而刎首。

我遂迎刃而解,

彼自倒戈相攻。

繼而四面添兵以包圍,

期以十月中旬而殄滅。

爰選貔貅之士,

申命爪牙之臣。

飲象而河水乾,

磨刀而山石鈌。

一鼓而鯨刳鱷斷,

再鼓而鳥散麇驚。

決潰蟻於崩堤,

振剛風於稿葉。

都督崔聚膝行而送款,

尚書黃福面縛以就擒。

僵屍塞諒江諒山之途,

戰血赤昌江平灘之水。

風雲為之變色,

日月慘以無光。

其雲南兵為我軍所扼於梨花,自恫疑虛喝而先以破腑;

其沐晟眾聞昇軍所敗於芹站,遂躪藉奔潰而僅得脫身。

冷溝之血杵漂,江水為之嗚咽;

丹舍之屍山積,野草為之殷紅。

兩路救兵既不旋踵而俱敗,

各城窮寇亦將解甲以出降。

賊首成擒,彼既掉餓虎乞憐之尾;

神武不殺,予亦體上帝孝生之心。

參將方政,內官馬騏,先給艦五百餘艘,既渡海而猶且魂飛魄散;

總兵王通,參政馬瑛,又給馬數千餘匹,已還國而益自股慄心驚。

彼既畏死貪生,而修好有誠;

予以全軍為上,而欲民之得息。

非惟謀計之極其深遠,

蓋亦古今之所未見聞。

社稷以之奠安,

山川以之改觀。

乾坤既否而復泰,

日月既晦而復明。

于以開萬世太平之基,

于以雪天地無窮之恥。

是由天地祖宗之靈有,

以默相陰佑而致然也!

於戲!

一戎大定,

迄成無兢之功;

四海永清,

誕布維新之誥。

播告遐邇,

咸使聞知。

Phiên âm tiếng Việt

Đại thiên hành hoá hoàng thượng nhược viết:

Cái văn:

Nhân nghĩa chi cử, yếu tại an dân,

Điếu phạt chi sư mạc tiên khử bạo.

Duy, ngã Đại Việt chi quốc,

Thực vi văn hiến chi bang.

Sơn xuyên chi phong vực ký thù,

Nam bắc chi phong tục diệc dị.

Tự Triệu, Đinh, Lý, Trần chi triệu tạo ngã quốc,

Dữ Hán, Đường, Tống, Nguyên nhi các đế nhất phương.

Tuy cường nhược thì hữu bất đồng,

Nhi hào kiệt thế vị thường phạp.

Cố Lưu Cung tham công dĩ thủ bại,

Nhi Triệu Tiết hiếu đại dĩ xúc vong.

Toa Đô ký cầm ư Hàm Tử quan,

Ô Mã hựu ế ư Bạch Đằng hải.(6)

Kê chư vãng cổ,

Quyết hữu minh trưng.

Khoảnh nhân Hồ chính chi phiền hà.

Chí sử nhân tâm chi oán bạn.

Cuồng Minh tứ khích, nhân dĩ độc ngã dân;

Ác Đảng hoài gian, cánh dĩ mại ngã quốc.

Hân thương sinh ư ngược diệm,

Hãm xích tử ư hoạ khanh.

Khi thiên võng dân, quỷ kế cái thiên vạn trạng;

Liên binh kết hấn nẫm ác đãi nhị thập niên.

Bại nghĩa thương nhân, càn khôn kỷ hồ dục tức;

Trọng kHoa hậu liễm, sơn trạch mi hữu kiết di.

Khai kim trường tái mạo lam chướng nhi phủ sơn đào sa,

Thái minh châu tắc xúc giao long nhi căng yêu thộn hải.

Nhiễu dân thiết huyền lộc chi hãm tịnh,

Điển vật chức thuý cầm chi võng la.

Côn trùng thảo mộc giai bất đắc dĩ toại kỳ sinh,

Quan quả điên liên câu bất hoạch dĩ an kỳ sở.

Tuấn sinh linh chi huyết dĩ nhuận kiệt hiệt chi vẫn nha;

Cực thổ mộc chi công dĩ sùng công tư chi giải vũ.

Châu lý chi chinh dao trọng khốn,

Lư diêm chi trữ trục giai không.

Quyết Đông Hải chi thuỷ bất túc dĩ trạc kỳ ô,

Khánh Nam Sơn chi trúc bất túc dĩ thư kỳ ác.

Thần dân chi sở cộng phẫn,

Thiên địa chi sở bất dung.

Dư:

Phấn tích Lam Sơn,

Thê thân hoang dã.

Niệm thế thù khởi khả cộng đới,

Thệ nghịch tặc nan dữ câu sinh.

Thống tâm tật thủ giả thuỳ thập dư niên,

Thường đảm ngoạ tân giả cái phi nhất nhật.

Phát phẫn vong thực, mỗi nghiên đàm thao lược chi thư,

Tức cổ nghiệm kim, tế suy cứu hưng vong chi lý.

Đồ hồi chi chí,

Ngộ mị bất vong.

Đương nghĩa kỳ sơ khởi chi thì,

Chính tặc thế phương trương chi nhật.

Nại dĩ:

Nhân tài thu diệp,

Tuấn kiệt thần tinh.

Bôn tẩu tiên hậu giả ký phạp kỳ nhân,

Mưu mô duy ác giả hựu quả kỳ trợ.

Đặc dĩ cứu dân chi niệm, mỗi uất uất nhi dục đông;

Cố ư đãi hiền chi xa, thường cấp cấp dĩ hư tả.

Nhiên kỳ:

Đắc nhân chi hiệu mang nhược vọng dương,

Do kỷ chi thành thậm ư chửng nịch.

Phẫn hung đồ chi vị diệt,

Niệm quốc bộ chi tao truân.

Linh Sơn chi thực tận kiêm tuần,

Khôi Huyện chi chúng vô nhất lữ.

Cái thiên dục khốn ngã dĩ giáng quyết nhiệm,

Cố dữ ích lệ chí dĩ tế vu nan.

Yết can vi kỳ, manh lệ chi đồ tứ tập;

Đầu giao hưởng sĩ, phụ tử chi binh nhất tâm.

Dĩ nhược chế cường, hoặc công nhân chi bất bị;

Dĩ quả địch chúng thường thiết phục dĩ xuất kỳ.

Tốt năng:

Dĩ đại nghĩa nhi thắng hung tàn,

Dĩ chí nhân nhi dị cường bạo.

Bồ Đằng chi đình khu điện xế,

Trà Lân chi trúc phá hôi phi.

Sĩ khí dĩ chi ích tăng,

Quân thanh dĩ chi đại chấn.

Trần Trí, Sơn Thọ văn phong nhi sỉ phách,

Lý An, Phương Chính giả tức dĩ thâu sinh.

Thừa thắng trường khu, Tây Kinh ký vị ngã hữu;

Tuyển binh tiến thủ, Đông Đô tận phục cựu cương.

Ninh Kiều chi huyết thành xuyên, lưu tinh vạn lý;

Tốt Động chi thi tích dã, di xú thiên niên.

Trần Hiệp tặc chi phúc tâm, ký kiêu kỳ thủ;

Lý Lượng tặc chi gian đố, hựu bạo quyết thi.

Vương Thông lý loạn nhi phần giả ích phần,

Mã Anh cứu đấu nhi nộ giả ích nộ.

Bỉ trí cùng nhi lực tận, thúc thủ đãi vong;

Ngã mưu phạt nhi tâm công, bất chiến tự khuất.

Vị bỉ tất dị tâm nhi cải lự,

Khởi ý phục tác nghiệt dĩ tốc cô.

Chấp nhất kỷ chi kiến dĩ giá hoạ ư tha nhân,

Tham nhất thì chi công dĩ di tiếu ư thiên hạ.

Toại linh Tuyên Đức chi giảo đồng, độc binh vô yếm;

Nhưng mệnh Thạnh Thăng chi noạ tướng, dĩ du cứu phần.

Đinh vị cửu nguyệt Liễu Thăng toại dẫn binh do Khâu Ôn nhi tiến,

Nản niên thập nguyệt Mộc Thạnh hựu phân đồ tự Vân Nam nhi lai.

Dư tiền ký tuyển binh tái hiểm dĩ tồi kỳ phong,

Dư hậu tái điều binh tiệt lộ dĩ đoạn kỳ thực.

Bản nguyệt thập bát nhật Liễu Thăng vị ngã quân sở công, kế truỵ ư Chi Lăng chi dã;

Bản nguyệt nhị thập nhật Liễu Thăng hựu vị ngã quân sở bại, thân tử ư Mã An chi sơn.

Nhị thập ngũ nhật Bảo Định bá Lương Minh trận hãm nhi táng khu,

Nhị thập bát nhật Thượng thư Lý Khánh kế cùng nhi vẫn thủ.

Ngã toại nghênh nhận nhi giải,

Bỉ tự đảo qua tương công.

Kế nhi tứ diện thiêm binh dĩ bao vi,

Kỳ dĩ thập nguyệt trung tuần nhi điễn diệt.

Viên tuyển tì hưu chi sĩ,

Thân mệnh trảo nha chi thần.

Ẩm tượng nhi hà thuỷ càn,

Ma đao nhi sơn thạch khuyết.

Nhất cổ nhi kình khô ngạc đoạn,

Tái cổ nhi điểu tán quân kinh.

Quyết hội nghĩ ư băng đê,

Chấn cương phong ư cảo diệp.

Đô đốc Thôi Tụ tất hành nhi tống khoản,

Thượng thư Hoàng Phúc diện phọc dĩ tựu cầm.

Cương thi tái Lượng Giang, Lượng Sơn chi đồ,

Chiến huyết xích Xương Giang, Bình Than chi thuỷ.

Phong vân vị chi biến sắc,

Nhật nguyệt thảm dĩ vô quang.

Kỳ Vân Nam binh vị ngã quân sở ách ư Lê Hoa, tự đỗng nghi hư hạt nhi tiên dĩ phá phủ;

Kỳ Mộc Thạnh chúng văn Thăng quân sở bại ư Cần Trạm, toại lận tạ bôn hội nhi cận đắc thoát thân.

Lãnh Câu chi huyết chử phiếu, giang thuỷ vị chi ô yết;

Đan Xá chi thi sơn tích, dã thảo vị chi ân hồng.

Lưỡng lộ cứu binh ký bất toàn chủng nhi câu bại,

Các thành cùng khấu diệc tướng giải giáp dĩ xuất hàng.

Tặc thủ thành cầm, bỉ ký trạo ngạ hổ khất liên chi vĩ;

Thần võ bất sát, dư diệc thể thượng đế hiếu sinh chi tâm.

Tham tướng Phương Chính, Nội quan Mã Kỳ, tiên cấp hạm ngũ bách dư sưu, ký độ hải nhi do thả hồn phi phách tán;

Tổng binh Vương Thông, Tham chính Mã Anh, hựu cấp mã sổ thiên dư thất, dĩ hoàn quốc nhi ích tự cổ lật tâm kinh.

Bỉ ký uý tử tham sinh, nhi tu hảo hữu thành;

Dư dĩ toàn quân vi thượng, nhi dục dân chi đắc tức.

Phi duy mưu kế chi cực kỳ thâm viễn,

Cái diệc cổ kim chi sở vị kiến văn.

Xã tắc dĩ chi điện an,

Sơn xuyên dĩ chi cải quan.

Càn khôn ký bĩ nhi phục thái,

Nhật nguyệt ký hối nhi phục minh.

Vu dĩ khai vạn thế thái bình chi cơ,

Vu dĩ tuyết thiên địa vô cùng chi sỉ.

Thị do thiên địa tổ tông chi linh hữu,

Dĩ mặc tương âm hữu nhi trí nhiên dã.

Ô hô!

Nhất nhung đại định,

Hất thành vô cạnh chi công;

Tứ hải vĩnh thanh,

Đản bố duy tân chi cáo.

Bá cáo hà nhĩ,

Hàm sử văn tri.

 

Bản dịch Bùi Kỷ: 

Tượng mảng:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân.
Quân điếu phạt chỉ vì khử bạo,
Như nước Việt ta từ trước,
Vốn xưng văn hiến đã lâu,
Sơn hà cương vực đã chia,
Phong tục Bắc Nam cũng khác,
Từ Đinh, Lê, Lý, Trần gây nền độc lập,
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên hùng cứ một phương
Dẫu cường nhược có lúc khác nhau,
Song hào kiệt đời nào cũng có.

Vậy nên:
Lưu Cung sợ uy mất vía,
Triệu Tiết nghe tiếng giật mình.
Cửa Hàm Tử giết tươi Toa Đô,
Sông Bạch Đằng bắt sống Ô Mã.
Xét xem cổ tích,
Đã có minh trưng.

Vừa rồi:
Vì họ Hồ chính sự phiền hà,
Để trong nước nhân dân oán hận,
Quân cường Minh đã thừa cơ từ ngược,
Bọn gian tà còn bán nước cầu vinh,
Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn,
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ.
Chước dối đủ muôn nghìn khóe,
Ác chứa ngót hai mươi năm.
Bại nhân nghĩa nát cả càn khôn,
Nặng khóa liễm vét không sơn trạch.
Nào lên rừng đào mỏ, nào xuống bể mò châu,
Nào hố bẫy hươu đen, nào lưới dò chim trả,
Tàn hại cả côn trùng, thảo mộc,
Nheo nhóc thay! quan quả điên liên.
Kẻ há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy! no nê chưa chán
Nay xây nhà, mai đắp đất, chân tay nào phục dịch cho vừa
Nặng nề về những nỗi phu phen,
Bắt bớ mất cả nghề canh cửi.
Độc ác thay! trúc rừng không ghi hết tội,
Dơ bẩn thay! nước bể không rữa sạch mùi,
Lẽ nào trời đất tha cho,
Ai bảo thần nhân nhịn được.

Ta đây:
Núi Lam Sơn dấy nghĩa,
Chốn hoang dã nương mình,
Ngắm non sông căm nỗi thế thù,
Thề sống chết cùng quân nghịch tặc,
Đau lòng nhức óc, chốc là mười mấy nắng mưa.
Nếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối.
Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh,
Ngẫm trước đến nay, lẽ hưng phế đắn đo càng kỹ.
Những trằn trọc trong cơn mộng mị,
Chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồi.
Vừa khi cờ nghĩa dấy lên,
Chính lúc quân thù đang thịnh.

Lại ngặt vì:
Tuấn kiệt như sao buổi sáng,
Nhân tài như lá mùa thu,
Việc bôn tẩu thiếu kẻ đỡ đần,
Nơi duy ác hiếm người bàn bạc.
Đôi phen vùng vẫy, vẫn đăm đăm con mắt đục đõng.
Mấy thuở đợi chờ, luống đằng đẵng cỗ xe hư tả.
Thế mà trông người, người càng vắng ngắt,
Vẫn mịt mù như kẻ vọng dương,
Thế mà tự ta, ta phải lo toan, thêm vội vã như khi chửng nịch.
Phần vì giận hung đồ ngang dọc,
Phần thì lo quốc bộ khó khăn,
Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần,
Khi Khôi huyện quân không một đội.
Có lẽ trời muốn trao cho gánh nặng,
Bắt phải qua bách chiết thiên ma.
Cho nên ta cố gắng gan bền, chấp hết cả nhất sinh thập tử.
Múa đầu gậy ngọn cờ phất phớ, ngóng vân nghê bốn cõi đan hồ
Mở tiệc quân chén rượu ngọt ngào, khắp tướng sĩ một lòng phụ tử
Thế giặc mạnh, ta yếu mà ta địch nổi.
Quân giặc nhiều ta ít mà ta được luôn.

Dọn hay:
Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,
Lấy chí nhân mà thay cường bạo.
Trận Bồ Đằng sấm vang sét dậy,
Miền Trà Lân trúc phá tro bay.
Sĩ khí đã hăng, quân thanh càng mạnh,
Trần Trí, Sơn Thọ mất vía chạy tan.
Phương Chính, Quý An tìm đường trốn tránh.
Đánh Tây Kinh phá tan thế giặc,
Lây Đông Đô thu lại cõi xưa.
Dưới Ninh Kiều máu chảy thành sông,
Bến Tuy Động xác đầy ngoài nội.
Trần Hiệp đã thiệt mạng,
Lý Lương lại phơi thây,
Vương Thông hết cấp lo lường,
Mã Anh không đường cứu đỡ.
Nó đã trí cùng lực kiệt, bó tay không biết tính sao.
Ta đây mưu phạt tâm công, chẳng đánh mà người chịu khuất.
Tưởng nó đã thay lòng đổi dạ, biết lẽ tới lui.
Ngờ đâu còn kiếm kế tìm phương, gây mầm tội nghiệp.
Cậy mình là phải, chỉ quen đổ vạ cho người.
Tham công một thời, chẳng bỏ bày trò dở duốc.
Đến nỗi đứa trẻ con như Tuyên Đức, nhàm võ không thôi.
Lại sai đồ nhút nhát như Thạch, Thăng, đem dầu chữa cháy.
Năm Đinh Mùi tháng chín,
Liễu Thăng tự Khâu Ôn tiến sang,
Mộc Thạch tự Vân Nam kéo đến.
Ta đã điều binh thủ hiểm, để ngăn lối Bắc quân.
Ta lại sai tướng chẹn ngang, để tuyệt đường lương đạo.
Mười tám, Liễu Thăng thua ở Chi Lăng,
Hai mươi, Liễu Thăng chết ở Mã Yên,
Hai mươi lăm, Lương Minh trận vong.
Hai mươi tám, Lý Khánh tự vẫn.
Lưỡi dao ta đương sắc,
Ngọn dáo giặc phải lùi.
Lại thêm quân bốn mặt vây thành,
Hẹn đến rằm tháng mười diệt tặc.
Sĩ tốt ra oai tì hổ,
Thần thứ đủ mặt trào nha.
Gươm mài đá, đá núi cũng mòn,
Voi uống nước, nước sông phải cạn.
Đánh một trận sạch không kinh ngạc,
Đánh hai trận tan tác chim muông.
Cơn gió to trút sạch lá khô,
Tổ kiến hổng sụt toang đê cũ.
Thôi Tụ phải quì mà xin lỗi,
Hoàng Phúc tự trói để hàng.
Lạng Giang, Lạng Sơn thây chất đầy đồng
Xương Giang, Bình Than máu trôi đỏ nước.
Ghê gớm thay! sắc phong vân cũng đổi,
Thảm đạm thay! sáng nhật nguyệt phải mờ,
Binh Vân Nam nghẽn ở Lê hoa, sợ mà mất mật,
Quân Mộc Thanh tan chưng Cần trạm, chạy để thoát thân,
Suối máu Lãnh Câu, nước sông rền rĩ.
Thành xương Đan Xá, cỏ nội đầm đìa,
Hai mặt cứu binh cắm đầu trốn chạy,
Các thành cùng khấu, cởi giáp xuống đầu.
Bắt tướng giặc mang về, nó đã vẫy đuôi phục tội.
Thề lòng trời bất sát, ta cũng mở đường hiếu sinh.
Mã Kỳ, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền,
Ra đến bể chưa thôi trống ngực.
Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa,
Về đến Tàu còn đổ mồ hôi.
Nó đã sợ chết cầu hòa, mở lòng thú phục,
Ta muốn toàn quân là cốt, cả nước nghỉ ngơi.
Thế mới là mưu kế thật khôn,
Vả lại suốt xưa nay chưa có,
Giang san từ đây mở mặt,
Xã tắc từ đây vững bền,
Nhật nguyệt hối mà lại minh.
Kiền khôn bĩ mà lại thái,
Nền vạn thế xây nên chăn chắn.
Thẹn nghìn thu rữa sạch làu làu.
Thế là nhờ trời đất Tổ Tông khôn thiêng giúp đỡ cho nước ta vậy.
Than ôi!
Vẫy vùng một mảnh nhung y, nên công đại định,
Phẳng lặng bốn bề thái vũ, mở hội vĩnh thanh.
Bá cáo xa gần,
Ngỏ cùng nghe biết.

Bản dịch Trúc Khê Ngô Văn Triện:
Thay Trời làm việc, Hoàng thượng dạy rằng:

Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.
Nước Đại Việt ta,
Nền văn hiến cũ.
Non nước cõi bờ đã khác,
Bắc Nam phong tục vẫn riêng.
Cơ đồ gây dựng trải Triệu, Đinh, Lý, Trần,
Đế bá tranh hùng cùng Hán, Đường, Nguyên, Tống.
Tuy mạnh yếu từng khi có khác,
Nhưng hào kiệt chẳng thủa nào không.

Cho nên:
Lưu Cung tham công mà phải thua,
Triệu Tuyết muốn lớn càng mau mất.
Toa Đô đã bị bắt ở cửa Hàm Tử,
Ô Mã lại phải chết ở sông Bạch Đằng.
Xét lại việc xưa,
Hãy còn chứng rõ.

Gần đây nhân:
Họ Hồ ngang ngược,
Lòng người căm hờn.
Quân Minh thừa dịp đến hại dân,
Đảng ngụy manh lòng đem bán nước.
Hơ lũ đầu đen trên lửa nóng,
Đẩy phường con đỏ xuống hang sâu.
Dối trời hại dân, gian xảo đủ nghìn muôn lối;
Gây binh nhóm loạn, tàn hại trải hai mươi năm,
Nhân nghĩa vứt đi hoài, vũ trụ tưởng chừng muốn sập;
Thuế má vét cho đẫy, núi khe sạch nhẵn như chùi.
Kẻ bị đem vào núi đào vàng, ma thiêng nước độc;
Người bị ép xuống khơi mò ngọc, cá nuốt sóng vùi.
Bẫy dân cạm đặt khắp nơi nơi;
Vét vật lưới chăng từng chốn chốn.
Dẫu loài sâu bọ cỏ cây, khôn bề rảnh sống;
Đến kẻ góa bụa cùng khổ, khó nỗi an thân.
Máu mỡ dân chúng, sớm vắt tối bòn;
Nhà cửa công tư, nay xây mai dựng.
Chốn châu lý nặng nề sưu dịch;
Trong xóm làng quạnh vắng củi canh.
Múc cạn nước sông Đông Hải, dễ mà rửa sạch tanh nhơ;
Đẵn hết trúc Nam Sơn, chẳng đủ biên ghi tội ác.
Thần, người đều căm giận;
Trời, đất chẳng dong tha.
Ta phát tích từ núi Lam Sơn,
Náu hình trong nơi hoang dã.
Trước thù lớn làm ngơ không thể,
Cùng giặc già chung sống được sao.
Đau lòng não ruột, dã ngoại mười niên;
Nếm mật nằm gai, phải đâu một buổi!
Quên ăn, bỏ ngủ, dùi mài các sách lược thao;
Xét xưa, nghiệm nay, suy cứu mọi lẽ hưng phế.
Đồ hồi chí định,
Thức ngủ không quên.
Giữa khi quân nghĩa nổi lên,
Chính lúc thế giặc đương mạnh.
Buồn nỗi nhân tài còn ít ỏi,
Tuấn kiệt còn vắng thưa.
Chạy chọt sau trước không đủ người,
Trù hoạch mưu mô càng thiếu kẻ.
Chỉ vì lòng cứu dân không nguôi nửa khắc;
Cho nên xe đãi hiền dành sẵn một bên.
Nhưng đợi người, người vẫn xa xăm;
Mà việc mình, mình càng nóng sốt.
Giận tặc đồ chưa trừ khử được;
Buồn quốc bộ vẫn truân kiển hoài.
Linh sơn lương cạn đến hàng tuần;
Khôi huyện quân không còn một toán.
Bởi trời muốn thử ta để trao nhiệm vụ,
Nên ta càng gắng chí để chống gian nan.
Tụ tập các đám lê dân, tay vác cần câu ra đánh giặc;
Gắn bó một lòng phụ tử, rượu hòa nước lã để khao quân.
Lấy yếu chống mạnh, hoặc đánh lúc bất ngờ;
Lấy ít địch nhiều, hoặc dùng quân mai phục.
Rút lại thì lấy đại nghĩa mà thắng được hung tàn;
Lấy chí nhân mà đè được cường bạo.
Dải Bồ tất sấm ran chớp giật,
Miền Trà Lân trúc chẻ khói bay.
Sĩ khí nhân thế càng tăng thêm,
Quân thanh nhân thế càng lừng lẫy.
Một bọn Trần Trí, Sơn Thọ, nghe hơi mà bở vía;
Mấy gã Lý An, Phương Chính, nhịn thở cầu thoát thân.
Thừa thắng ruổi dài, Tây kinh đã thu phục
Thuận đường thẳng tiến, Đông đô lại lấy về.
Máu Ninh kiều lênh láng thành sông tanh trôi muôn dặm;
Thây Tốt động ngổn ngang đầy nội, nhơ để nghìn năm.
Trần Hiệp là tâm phúc của giặc, đã phải bêu đầu;
Lý Lượng là sâu mọt dân ta, lại liền bỏ mạng.
Vương Thông nhảy vào chửa cháy mà càng cháy,
Mã Ánh xông đến gỡ nguy mà càng nguy.
Bó tay đợi chết, họ đã quẫn cùng;
Không đánh tự tan, ta dùng mưu thuật.
Vẫn tưởng chúng phải thay lòng đổi ý;
Không ngờ họ còn giở chuyện bày trò.
Vì ý kiến một người, gieo vạ cho bao nhiêu kẻ khác;
Tham công danh một buổi, để cười cho tất cả nhân gian.
Do đó thằng nhãi Tuyên Đức (vua Minh), nối giáo không ngừng;
Khéo sai đồ khốn Liễu Thăng, đem dầu chữa cháy;
Đinh Mùi tháng chín, Liễu Thăng dẫn binh từ Khâu Ôn tiến đến;
Năm ấy tháng mười, Mộc Thạnh chia đường từ Vân Nam kéo sang.
Ta đã đặt phục binh, đánh cho giập đầu;
Sau lại dùng kỳ binh, chẹn cho đứt cuối.

Ngày mười tám Liễu Thăng bị đánh, sa cơ ở ải Chi Lăng;
Ngày hai mươi Liễu Thăng bị thua, bỏ mạng ở gò Yên ngựa (Mã An).
Ngày hai mươi lăm, bá tước Lương Minh lâm nguy phải tử trận;
Ngày hai mươi tám, thượng thư Lý Khánh cùng kế phải quyên sinh.
Ta đưa mũi nhọn rạch phăng,
Họ quay đầu giáo đánh lộn.
Kế đó bốn mặt thêm quân để vây bọc;
Định đến trung tuần tháng mười sẽ diệt trừ.
Bèn tuyển những đội quân gấu hùm,
Và sai những bầy tôi nanh vuốt.
Voi uống khiến nước sông vơi cạn,
Gươm mài nên đá núi thủng mòn.
Một trận mà ngạc mổ kình phanh,
Hai trận mà chin tan thú giãn.
Tổ kiến lớn phá toang đê núng,
Trận gió to rung trút lá khô.
Đô đốc Thôi Tụ quỳ gối xin thương;
Thượng thư Hoàng Phúc cúi đầu chịu trói.
Lương sơn, Lạng giang, thây chết nằm bề bộn;
Xương giang, Bình than, máu đỏ nhuộm lênh lang.
Gió mây đến nỗi bàng hoàng.
Nhật nguyệt ra chiều ảm đạm.
Quân Vân Nam bị ta chận ở Lê Hoa, hồ đồ sợ bóng mà trước tự vỡ mật;
Quân Mộc Thạnh bị ta phá ở Cần trạm, giẫm đạp lẫn nhau mà chạy lấy thoát thân.
Lãnh Câu máu chảy đầy sông, nước vang tiếng rú;
Đan Xá thây chồng khắp nội, cỏ đẫm màu hoen.
Cứu binh hai đạo đã vỡ ngói tan tành;
Cùng khấu các thành đều cổi giáp hàng phục.
Tướng giặc bị cùm, van vỉ họ đã xin cho toàn mạng;
Thần võ chẳng giết, khoan hồng ta cũng mở lượng hiếu sinh.
Bọn Tham chính Phương Chính, Nội quan Mã Kỳ, trước được cấp năm trăm chiếc thuyền, đã vượt bể mà vẫn hồn kinh phách tán;
Lũ Tổng binh Vương Thông, Tham chính Mã Anh, lại được cấp mấy nghìn cỗ ngựa, đã về nước mà còn mặt xám mày xanh.
Họ đã tham sống sợ chết mà hòa hiếu thực lòng;
Ta lấy toàn quân là hơn để nhân dân nghỉ sức.
Chẳng những mưu kế đã sâu xa nhiều lắm;
Cũng là xưa nay chưa nghe thấy bao giờ.
Xã tắc từ đây sẽ vững yên,
Non sông từ đây sẽ đổi mới.
Càn khôn đã bĩ mà lại thái,
Nhật nguyệt đã mờ mà lại trong.
Đặng mở nền bình trị muôn năm,
Đặng rửa vết thẹn thùng nghìn thủa.
Âu cũng do Trời Đất Tổ Tông linh thiêng đã thầm lặng giúp vì mới được như thế.
Ôi!
Ba quân giong ruổi, hoàn thành công vô cạnh mừng nay;
Bốn bể thăng bình, bá cáo lời duy tân tự đó.
Bảo khắp thiên hạ,
Ai nấy đều bay.

Bản dịch Ngô Tất Tố:
Từng nghe:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo;
Như nước đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu,
Nước non bờ cõi đã chia,
Phong tục Bắc Nam cũng khác;
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập;
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương;
Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau,
Song hào kiệt thời nào cũng có.


Cho nên:
Lưu Cung tham công nên thất bại;
Triệu Tiết chí lớn phải vong thân;
Cửa Hàm tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã
Việc xưa xem xét.
Chứng cứ còn ghi.

Vưà rồi:
Nhân họ Hồ chính sự phiền hà
Để trong nước lòng dân oán hận
Quân cuồng Minh thừa cơ gây loạn
Bọn gian tà còn bán nước cầu vinh
Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ
Dối trời lừa dân đủ muôn ngàn kế
Gây thù kết oán trải mấy mươi năm
Bại nhân nghĩa nát cả đất trời.
Nặng thuế khóa sạch không đầm núi.
Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập thuồng luồng.
Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu nước độc.
Vét sản vật, bắt dò chim sả, chốn chốn lưới chăng.
Nhiễu nhân dân, bắt bẫy hươu đen, nơi nơi cạm đặt.
Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ, nheo nhóc thay kẻ góa bụa khốn cùng.
Thằng há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy no nê chưa chán,
Nay xây nhà, mai đắp đất, chân tay nào phục dịch cho vừa ?
Nặng nề những nổi phu phen tan tác cả nghề canh cửi.
Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi !
Lòng người đều căm giận,
Trời đất chẳng dung tha;

Ta đây:
Núi Lam sơn dấy nghĩa
Chốn hoang dã nương mình
Ngẫm thù lớn há đội trời chung
Căm giặc nước thề không cùng sống
Đau lòng nhức óc, chốc đà mười mấy năm trời
Nếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối.
Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh,
Ngẫm trước đến nay, lẽ hưng phế đắn đo càng kỹ
Những trằn trọc trong cơn mộng mị,
Chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồi
Vừa khi cờ nghĩa dấy lên,
Chính lúc quân thù đang mạnh.

Lại ngặt vì:
Tuấn kiệt như sao buổi sớm,
Nhân tài như lá mùa thu,
Việc bôn tẩu thiếu kẻ đở đần,
Nơi duy ác hiếm người bàn bạc,
Tấm lòng cứu nước, vẫn đăm đăm muốn tiến về Đông,
Cỗ xe cầu hiền, thường chăm chắm còn dành phía tả.

Thế mà:
Trông người, người càng vắng bóng,
Mịt mù như nhìn chốn bể khơi.
Tự ta, ta phải dốc lòng,
Vội vã hơn cứu người chết đói.
Phần vì giận quân thù ngang dọc,
Phần vì lo vận nước khó khăn,
Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần,
Lúc Khôi Huyện quân không một đội.
Trời thử lòng trao cho mệnh lớn
Ta gắng trí khắc phục gian nan.
Nhân dân bốn cõi một nhà,
Dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới
Tướng sĩ một lòng phụ tử,
Hòa nước sông chén rượu ngọt ngào.
Thế trận xuất kỳ, lấy yếu chống mạnh,
Dùng quân mai phục, lấy ít địch nhiều.

Trọn hay:
Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,
Lấy chí nhân để thay cường bạọ
Trận Bồ Đằng sấm vang chớp giật,
Miền Trà Lân trúc chẻ tro bay.
Sĩ khí đã hăng quân thanh càng mạnh.
Trần Trí, Sơn Thọ nghe hơi mà mất vía,
Lý An, Phương Chính, nín thở cầu thoát thân.
Thừa thắng đuổi dài, Tây Kinh quân ta chiếm lại,
Tuyển binh tiến đánh, Đông Đô đất cũ thu về.
Ninh Kiều máu chảy thành sông, tanh hôi vạn dặm
Tụy Động thây chất đầy nội, nhơ để ngàn năm.
Phúc tâm quân giặc: Trần Hiệp đã phải bêu đầu
Mọt gian kẻ thù: Lý Lượng cũng đành bỏ mạng.
Vương Thông gỡ thế nguy, mà đám lửa cháy lại càng cháy
Mã Anh cứu trận đánh mà quân ta hăng lại càng hăng.
Bó tay để đợi bại vong,
Giặc đã trí cùng lực kiệt,
Chẳng đánh mà người chịu khuất,
Ta đây mưu phạt tâm công.
Tưởng chúng biết lẽ ăn năn
Nên đã thay lòng đổi dạ
Ngờ đâu vẫn đương mưu tính
Lại còn chuốc tội gây oan.
Giữ ý kiến một người, gieo vạ cho bao nhiêu kẻ khác,
Tham công danh một lúc, để cười cho tất cả thế gian.

Bởi thế:
Thằng nhãi con Tuyên đức động binh không ngừng
Đồ nhút nhát Thạnh, Thăng đem dầu chữa cháy
Đinh mùi tháng chín, Liễu Thăng đem binh từ Khâu Ôn kéo lại
Năm ấy tháng mười, Mộc Thạnh chia đường từ Vân Nam tiến sang.
Ta trước đã điều binh thủ hiểm, chặt mũi tiên phong
Sau lại sai tướng chẹn đường tuyệt nguồn lương thực
Ngày mười tháng tám, trận Chi Lăng Liễu Thăng thất thế
Ngày hai mươi, trận Mã Yên Liễu Thăng cụt đầu
Ngày hăm lăm, bá tước Lương Minh đại bại tử vong
Ngày hăm tám, thượng thư Lý Khánh cùng kế tự vẫn.
Thuận đà ta đưa lưỡi dao tung phá
Bí nước giặc quay mũi giáo đánh nhau
Lại thêm quân bốn mặt vây thành
Hẹn đến giữa tháng mười diệt giặc
Sĩ tốt kén người hùng hổ
Bề tôi chọn kẻ vuốt nanh
Gươm mài đá, đá núi cũng mòn
Voi uống nước, nước sông phải cạn.
Đánh một trận, sạch không kình ngạc
Đánh hai trận tan tác chim muông.
Cơn gió to trút sạch lá khô,
Tổ kiến hổng sụt toang đê vỡ.
Đô đốc Thôi Tụ lê gối dâng tờ tạ tội,
Thượng thư Hoàng Phúc trói tay để tự xin hàng.
Lạng Giang, Lạng Sơn, thây chất đầy đường
Xương Giang, Bình Than, máu trôi đỏ nước
Ghê gớm thay! Sắc phong vân phải đổi,
Thảm đạm thay! Ánh nhật nguyệt phải mờ.
Bị ta chặn ở Lê Hoa,
Quân Vân Nam nghi ngờ
Khiếp vía mà vỡ mật
Nghe Thăng thua ở Cần Trạm,
Quân Mộc Thạnh xéo lên nhau
Chạy để thoát thân.
Suối Lãnh Câu, máu chảy thành sông,
Nước sông nghẹn ngào tiếng khóc
Thành đan Xá, thây chất thành núi,
Cỏ nội đầm đìa máu đen.
Cứu binh hai đạo tan tành, quay gót chẳng kịp,
Quân giặc các thành khốn đốn, cởi giáp ra hàng
Tướng giặc bị cầm tù, như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng
Thần Vũ chẳng giết hại, thể lòng trời ta mở đường hiếu sinh
Mã Kỳ, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền, ra đến biển mà vẫn hồn bay phách lạc,
Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa, về đến nước mà vẫn tim đập chân run.
Họ đã tham sống sợ chết mà hòa hiếu thực lòng
Ta lấy toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức.
Chẳng những mưu kế kì diệu
Cũng là chưa thấy xưa nay
Xã tắc từ đây vững bền
Giang sơn từ đây đổi mới
Càn khôn bĩ rồi lại thái
Nhật nguyệt hối rồi lại minh
Ngàn năm vết nhục nhã sạch làu
Muôn thuở nền thái bình vững chắc
Âu cũng nhờ trời đất tổ tông
Linh thiêng đã lặng thầm phù trợ;
Than ôi! Một cỗ nhung y chiến thắng,
Nên công oanh liệt ngàn năm
Bốn phương biển cả thanh bình,
Ban chiếu duy tân khắp chốn.
Xa gần bá cáo,
Ai nấy đều hay.

Bản dịch LỆ THẦN TRẦN TRỌNG KIM

Tượng-mảng:

Việc nhân-nghĩa cốt ở yên dân, quân điếu phạt chỉ vì khử bạo.

Như nước Việt ta từ trước, vốn xưng văn-hiến đã lâu.

Sơn-hà cương-vực đã chia, phong-tục bắc nam cũng khác.
Từ Đinh, Lê, Lý, Trần gây nền độc-lập; cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên, hùng-cứ một phương.

Dẫu cường nhược có lúc khác nhau, song hào-kiệt đời nào cũng có.

 

Vậy nên:

Lưu Cung sợ uy mất vía, Triệu Tiết nghe tiếng giật mình.

Cửa Hàm-tử giết tươi Toa Đô, sông Bạch Đằng bắt sống Ô Mã.

Xét xem cổ-tích, đã có minh-trưng (1)

 

Vừa rồi:

Vì họ Hồ chính-sự phiền-hà, để trong nước nhân-dân oán bạn.

Quân cuồng Minh đã thừa cơ tứ ngược(2), bọn gian-tà còn bán nước cầu vinh.

Nướng dân đen trên ngọn lửa hung-tàn, vùi con đỏ xuống dưới hầm tai-vạ.

Chước dối đủ muôn nghìn khóe, ác chứa ngót hai mươi năm.

Bại nhân-nghĩa, nát cả càn-khôn, nặng khoa-liễm (3) vét không sơn trạch.

Nào lên rừng đào mỏ, nào xuống bể mò châu, nào hố bẫy hươu đen, nào lưới dò chim sả.

Tàn-hại cả côn-trùng thảo-mộc; nheo-nhóc thay quan quả điên-liên (4).

Kẻ há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy no-nê chưa chán.

Nay xây nhà, mai đắp đất, chân tay nào phục-dịch cho vừa.

Nặng-nề về những nỗi phu-phen, bắt-bớ mất cả nghề canh-cửi.

Độc-ác thay! trúc rừng không ghi hết tội; dơ-bẩn thay! nước bể không rửa sạch mùi.

Lẽ nào trời đất tha cho, ai bảo thần-nhân nhịn được.

 

Ta đây:

Núi Lam Sơn dấy nghĩa, chốn hoang-dã nương mình.

Ngắm non sông căm nỗi thế thù, thề sống chết cùng quân nghịch-tặc.

Đau lòng nhức óc, chốc là mười mấy nắng mưa; nếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối.

Quên ăn vì giận, sách lược-thao suy-xét đã tinh; ngẫm trước đến nay, lẽ hưng-phế đắn-đo càng kỹ.

Những trằn-trọc trong cơn mộng-mị, chỉ băn-khoăn một nỗi đồ-hồi.

Vừa khi cờ nghĩa dấy lên, chính lúc quân thù đang mạnh.

 

Lại ngặt vì:

Tuấn-kiệt như sao buổi sớm, nhân-tài như lá mùa thu.

Việc bôn-tẩu thiếu kẻ đỡ-đần, nơi duy-ác hiếm người bàn-bạc.

Đôi phen vùng-vẫy, vẫn đăm-đăm con mắt dục đông (5); mấy thủa đợi-chờ, luống đằng-đẵng cỗ xe hư tả (6)
Thế mà trông người, người càng vắng-ngắt, vẫn mịt-mờ như kẻ vọng dương (7); thế mà tự ta, ta phải lo toan, thêm vội-vã như khi chửng-nịch (8).

Phần thì giận hung-đồ ngang-dọc, phần thì lo quốc-bộ khó-khăn.

Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần; khi Khôi-huyện quân không còn một lữ. 

Có lẽ trời muốn trao cho gánh nặng, bắt trải qua bách chiết thiên ma; cho nên ta cố-gắng gan bền, chấp hết cả nhất sinh thập tử.

Múa đầu gậy, ngọn cờ phất-phới, ngóng vân-nghê bốn cõi đan hồ.

Mở tiệc quân, chén rượu ngọt-ngào, khắp tướng-sĩ một lòng phụ tử.

Thế giặc mạnh, ta yếu mà ta địch nổi; quân giặc nhiều, ta ít mà ta được luôn.

 

Dọn hay:

Đem đại nghĩa để thắng hung-tàn, lấy chí nhân mà thay cường-bạo.

Trận Bồ-đằng sấm vang sét dậy, miền Trà-lân trúc phá tro bay.

Sĩ-khí đã hăng, quân thanh càng mạnh. Trần Trí, Sơn Thọ mất vía chạy tan; Phương Chính, Lý An tìm đường trốn-tránh.

Đánh Tây-kinh phá tan thế giặc, lấy Đông-đô thu lại cõi xưa. Dưới Ninh-kiều máu chảy thành sông; bến Tụy-động xác đầy ngoài nội. 

Trần Hiệp đã thiệt mạng, Lý Lương lại phơi thây. Vương Thông hết cấp lo lường, Mã Anh khôn đường cứu đỡ.

Nó đã trí cùng lực kiệt, bó tay không biết tính sao; ta đây mưu phạt tâm công, chẳng đánh mà người chịu khuất.

Tưởng nó phải thay lòng đổi dạ, hiểu lẽ tới lui; ngờ đâu còn kiếm kế tìm phương, gây mầm tội-nghiệt. Cậy mình là phải, chỉ quen đổ vạ cho người; tham công một thời, chẳng bỏ bày trò dơ-duốc.

Đến nỗi đứa trẻ ranh như Tuyên-đức (9), nhàm võ không thôi; lại sai đồ nhút-nhát như Thạnh, Thăng, đem dầu chữa cháy.

Năm đinh-mùi tháng chín, Liễu Thăng từ Khâu-ôn tiếng sang; lại năm nay tháng mười, Mộc Thạnh tự Vân-nam kéo đến.

Ta đã điều binh giữ hiểm để ngăn lối Bắc-quân; ta lại sai tướng chẹn ngang để tuyệt đường lương-đạo. Mười tám, Liễu Thăng thua ở Chi-lăng, hai mươi, Liễu Thăng chết ở Mã-yên. Hai-mươi-lăm, Lương Minh trận vong; hai-mươi-tám, Lý Khánh tự vẫn.

Lưỡi dao ta đang sắc, ngọn giáo giặc phải lùi. Lại thêm quân bốn mặt vây thành, hẹn đến rằm tháng mười diệt tặc.

Sĩ-tốt ra oai tì hổ, thần-thứ đủ mặt trảo nha. Gươm mài đá, đá núi cũng mòn; voi uống nước, nước sông phải cạn.

Đánh một trận sạch không kình-ngạc, đánh hai trận tan-tác chim-muông. Cơn gió to trút sạch lá khô, tổ kiến hổng sụt toang đê cũ.

Thôi Tụ phải quì mà xin lỗi, Hoàng Phúc tự trói để ra hàng. Lạng-giang, Lạng-sơn thây chất đầy đường, Xương-giang, Bình-than máu trôi đỏ nước.

Gớm-ghê thay! sắc phong-vân cũng đổi; thảm-đạm thay! sáng nhật-nguyệt phải mờ.

Binh Vân-nam nghẽn ở Lê-hoa, sợ mà mất mật; quân Mộc Thạnh tan chưn Cần-trạm, chạy để thoát thân.

Suối máu Lãnh-câu, nước sông rền-rĩ; thành xương Đan-xá, cỏ nội đầm-đìa.

Hai mặt cứu binh, cắm đầu trốn chạy; các thành cùng khấu, cởi giáp xuống đầu.

Bắt tướng giặc mang về, nó đã vẫy đuôi phục tội; thể lòng trời bất sát, ta cũng mở đường hiếu sinh.

Mã Kỳ, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền, ra đến bể chưa thôi trống ngực.

Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa, về đến Tàu còn đổ mồ-hôi.

Nó đã sợ chết cầu hòa, ngỏ lòng thú-phục; ta muốn toàn quân là cốt, cả nước nghỉ-ngơi.

Thế mới là mưu-kế thật khôn, vả lại suốt xưa nay chưa có.

Giang-san từ đây mở mặt, xã-tắc từ đây vững nền.

Nhật-nguyệt hối mà lại minh, càn-khôn bĩ mà lại thái.

Nền vạn thế xây nên chăn-chắn, thẹn nghìn thu rửa sạch làu-làu.

Thế là nhờ trời đất tổ-tông khôn-thiêng che-chở, giúp-đỡ cho nước ta vậy.

 

Than ôi!

Vẫy-vùng một mảng nhung-y nên công đại-định, phẳng-lặng bốn bề thái-vũ mở hội vĩnh-thanh.

Bá-cáo xa gần, ngỏ cùng nghe biết.

 

CHÚ THÍCH:

  1.  Minh-trưng: chứng-cớ rõ-ràng
  2.  Tứ-ngược: Hết sức tàn ngược
  3.  Khoa-liễm: Thuế-má
  4.  Quan: Người không vợ; quả: người góa chồng; điên-liên: những kẻ không có nhà ở, không trông-cậy vào đâu được.
  5.  Dục đông: Ý nói muốn về Đông-đô
  6.  Hư tả: Cỗ xe không bên trái để đợi người hiền
  7.  Vọng dương: Trông ra biển không thấy gì
  8.  Chửng-nịch: Vớt người chết đuối
  9.  Vua Tuyên-tông nhà Minh, niên-hiệu Tuyên-đức.





 

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn